Hoa bỉ Ngạn là loài hoa vô cùng nổi tiếng ở Trung Quốc. Hoa bỉ ngạn có 3 màu, mỗi màu lại tượng trưng cho một ý nghĩa khác nhau. Hoa Bỉ Ngạn trắng gọi là hoa Mạn đà la, hoa Bỉ ngạn đỏ gọi là hoa Mãn Châu và hoa Bỉ ngạn xanh. Hoa Bỉ Ngạn không chỉ đẹp mà còn ẩn chứa những ý nghĩa vô cùng sâu sắc đằng sau đó.
Hoa bỉ ngạn là gì?
Hoa bỉ ngạn có vô số tên gọi phổ biến như : hoa sa pa , Hồng hoa thạch toàn, Thạch toàn, Long Trầu hoa, Vô nghĩa thảo, Sán ô độc, U linh hoa, Địa hoa, Tử nhân hoa, mạch môn, xuyên hoa….
Hoa bỉ ngạn tên tiếng Latinh Lycoris radiata, là một loài hoa tuyệt đẹp thuộc họ amaryllis. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Nepal, cái tên này đã được sử dụng trong tiếng Nhật là manjushage từ một từ tiếng phạn có nghĩa là “hoa của các tầng trời”. Ở Nhật Bản, chúng còn được gọi là higanbana , nghĩa đen là “hoa điểm phân” khi chúng nở vào khoảng mùa thu mỗi năm. Chúng đặc biệt quan trọng ở Nhật Bản và Trung Quốc.
Điểm nổi bật của hoa bỉ ngạn đó chính là hoa mọc thành chùm, Cánh hoa vươn dài khỏi mặt đất, đỉnh đài hoa gồm 5-7 nụ, xòe ra tứ phía như muốn thu trọn tinh hoa của đất trời. Hoa có 3 màu chính: hoa bỉ ngạn trắng, hoa bỉ ngạn đỏ, hoa bỉ ngạn vàng.
Truyền thuyết hoa bỉ ngạn
Nhiều câu chuyện buồn xung quanh những bông hoa này. Một truyền thuyết kể rằng hoa bỉ ngạn đã được mang đến Nhật Bản bởi những người truyền giáo Cơ đốc giáo ban đầu, nhiều người trong số họ đã chết vì bệnh tật hoặc bị ngược đãi, trồng hoa bỉ ngạn để đánh dấu những con đường mà họ đã đi qua. Vì những bông hoa nở trùng với truyền thống của người Phật giáo đi thăm mộ vào điểm phân, nên sự xuất hiện của những bông hoa đối với nhiều người là buồn vui lẫn lộn.
Thói quen sinh trưởng bất thường của loài hoa bỉ ngạn đó chính là khi cây ra hoa thì lá không phát triển nữa hoặc khi có lá thì sẽ không bao giờ có hoa. gây tò mò này đã được giải thích trong một câu chuyện thần thoại của Trung Quốc. Nữ thần mặt trời Amaterasu đã phân công một đôi nam nữ tên Mạn Châu và Sa Hoa cùng nhau canh giữ hoa đăng. Mạn Châu canh giữ những cánh hoa, Sa Hoa canh giữ những chiếc lá, luôn biết về sự tồn tại của nhau, nhưng họ chưa từng được gặp nhau. Sự tò mò đã khiến họ bất chấp và cuối cùng đã lén lút gặp nhau, họ đã yêu nhau. Trời biết được đã trừng phạt họ bằng một lời nguyền sẽ không bao giờ gặp lại nhau và họ sống trong sự xa cách vĩnh viễn. Một tên khác của hoa là ‘Mañjusaka’ trong tiếng Trung Quốc và ‘Manju-syage’ trong tiếng Nhật.
Ngàn năm hoa nở, ngàn năm tàn
Hoa chỉ vừa đủ cành
Lá vừa mọc, hoa lại tàn
Chỉ thấy hoa mà không thấy lá
Khi thấy lá không thấy hoa
Lá và hoa chung gốc
Vốn rất gần gặp nhau
Cứ yêu thương ôm nỗi nhớ buồn.
Người ta nói đó là hoa Bỉ Ngạn.
****Có thể bạn quan tâm :
→ 11 loại hoa tượng trưng cho sự tưởng nhớ
Truyền thuyết kể rằng sau vô số kiếp luân hồi, một hôm Đức Phật đến đây và nhìn thấy một bông hoa trên mặt đất mang màu sắc khác thường và đỏ rực như lửa. Phật không buồn cũng không giận, đột nhiên nhìn lên trời cười ba cái, đưa tay kéo bông hoa ra khỏi mặt đất. Đức Phật cầm bông hoa lên tay, xúc động nói: “Kiếp trước không nghĩ tới nhau, kiếp sau vô số kiếp luân hồi cũng không thể ở bên nhau, đều là có duyên nhưng không phạn.” chia lìa, duyên phận bị hủy diệt nhưng không chia lìa, ta không thể giúp ngươi giải lời nguyền này, nên ta sẽ đưa ngươi đến bờ bên kia, cho ngươi nở hoa khắp nơi.
Trên đường sang bờ bên kia, Đức Phật đi qua sông Vương Xuyên ở âm phủ, y phục của Ngài vô tình bị nước sông làm ướt, đóa hoa màu đỏ do Đức Phật mang đến, khi nhìn lại thì thấy những bông hoa đỏ rực đã chuyển sang màu trắng tinh khiết, Đức Phật trầm ngâm một lúc rồi cười lớn và nói: Vui sướng hơn buồn lớn, nhớ lại càng tủi. còn hơn quên, đúng sai thì làm sao phân biệt được đâu là đúng đâu là hoa tốt, hoa tốt. Đức Phật trồng hoa bên này bên kia và gọi nó là Mandala ( hoa bỉ ngạn trắng gọi là Mandala) , và vì nó ở bên kia nên Ngài gọi nó là hoa bên kia.
Nhưng đức Phật đâu biết rằng mình đang ở trên sông Vương Xuyên, hoa tàn bên sông, hoa rơi cả một màu đỏ cả dòng sông, suốt ngày khóc lóc khiến lòng người xót xa. đến bờ sông, lấy một hạt giống ném xuống sông, một lúc sau, trên mặt nước mọc lên một bông hoa màu đỏ và đẹp hơn, Đức phật cầm lấy nó trong tay và thở dài: tại sao lại giữ lòng thù hận vô bờ bến này trong địa ngục vốn đã vô biên? Ta sẽ cho ngươi làm sứ giả hướng dẫn bọn vong hồn luân hồi, chỉ cần ngươi nhớ tới màu sắc của ngươi, bên kia có một đóa hoa mạn đà la, ta liền gọi ngươi là Manzhushahua. ( hoa bỉ ngạn đỏ gọi là Manzhushahua) Kể từ đó, đã có hai loài hoa hoàn toàn khác nhau trên thế giới, một loài mọc ở phía bên kia và loài còn lại được sinh ra bởi sông Wangchuan.
Hoa bên kia nở bên sông Wangchuan từ nay về sau. Sau khi chết, người ta sẽ dẫm lên đó và đi suốt con đường đến cầu Naihe, ngửi thấy hương hoa, sẽ nghĩ đến chính mình ở kiếp trước. Chỗ đó đỏ như máu, đẹp đến mê người. Ba ngày trước và sau ngày xuân phân, và ba ngày trước và sau ngày thu phân, hoa sẽ nở rất đúng giờ. Hoa nở, bên kia của sự sống và cái chết. Vì vậy người ta nhìn hoa ấy bị mê hoặc mà còn sợ hãi hơn, nên người ta đặt tai họa, chết chóc và chia ly.
Loài hoa lộng lẫy, đỏ tươi như máu, có hoa nhưng không có lá, là loài hoa duy nhất ở cõi âm. Truyền thuyết về hoa có sức mạnh kỳ diệu có thể gợi lại ký ức của những người đã khuất. Loài hoa này nở với số lượng lớn trên đường Hoàng Tuyền, nhìn từ xa trông giống như một tấm thảm làm bằng máu, còn được mệnh danh là “con đường lửa” vì sắc đỏ của nó, đây cũng là duy nhất trên con đường Hoàng Tuyền dài này. Phong cảnh và màu sắc. Khi linh hồn vượt qua sông Lãng quên, nó sẽ quên đi tất cả mọi thứ trong quá khứ, và mọi thứ trong quá khứ đều bị bỏ lại ở phía bên kia.
xăm hoa bỉ ngạn
Tên Manzhushahua xuất phát từ tiếng Phạn “Maha Manzhushahua”, có nghĩa là hoa của bầu trời, bông hoa lớn màu đỏ, một trong bốn loài hoa từ trên trời rơi xuống. Kinh Phật cũng nói rằng Manzhushahua (Hoa Mãn Châu) là loài hoa nở trên bầu trời. Kinh Phật ghi lại rằng “bên kia hoa nở ngàn năm rơi ngàn năm, hoa lá chẳng bao giờ gặp. Tình duyên không nhân quả, duyên phận sinh tử.”
Vẻ đẹp của Manzhushahua là vẻ đẹp điềm báo của ma quỷ, thảm họa , chết chóc và chia ly. Hoặc bởi vì màu đỏ tươi đậm của nó gợi nhớ đến máu, hoặc bởi vì củ của nó có độc tính cao, hình ảnh của nó thường được gắn với những khái niệm như buồn, tình duyên trắc trở . Suy cho cùng, xăm hình là một quyết định rất quan trọng, vì vậy trước khi quyết định xăm hình hoa bỉ ngạn lên cơ thể, hãy suy nghĩ thật kỹ.
Ý nghĩa hoa bỉ ngạn
Hoa bỉ ngạn là loài hoa đẹp, Trong văn hóa Nhật Bản, hoa bỉ ngạn mang ý nghĩa sâu sắc, nơi nông dân trồng lúa Nhật Bản trồng những bông hoa loa này để ngăn chặn các loài gây hại như chuột.
- Ở Nhật Bản xưa, việc mai táng chôn xác trực tiếp xuống đất là phổ biến. Phương pháp chôn cất bằng phương pháp chôn cất nói chung là cách lấp thi thể tạo thành đất, đất được san phẳng khi xác bên trong đất phân hủy và phân hủy bình thường. Tuy nhiên, cơ thể được chôn cất trở nên hư hỏng hoặc khó phân hủy đúng cách do cáo, chó gấu trúc và chuột chũi sống trên mặt đất. Vì vậy, người ta nói rằng người ta thường trồng hoa độc xung quanh mộ và bờ hồ để không mang những con vật làm trò nghịch ngợm đó lại gần.
- Hoa bỉ ngạn cũng rất quan trọng đối với các tín đồ Phật giáo. Các tín đồ Phật giáo thường trồng hoa bỉ ngạn đỏ trên mộ của những người đã khuất như một sự tri ân. Loài hoa gắn liền với cái chết và sự xuất hiện của mùa thu, cả hai đều có ý nghĩa đối với các tín đồ Phật giáo. Bởi vì loài hoa này có thể liên quan đến cái chết, nên thường không được sử dụng phổ biến trong một bó hoa.
- Những bông hoa này cũng có ý nghĩa đối với những người theo đạo Thiên chúa Nhật Bản, được liên kết với những người theo đạo Thiên chúa từ thời Trung cổ. Người ta tin rằng những bông hoa này mọc tại các địa điểm linh thiêng, nơi những người theo đạo Thiên chúa Nhật Bản đã được phong là những người tử vì đạo từ nhiều thế kỷ trước.
- Ở khắp châu Á, những bông hoa này báo trước sự xuất hiện của mùa thu và thường có thể được tìm thấy mọc trong và xung quanh các nghĩa trang. Theo Kinh Pháp Hoa, Hoa bỉ ngạn đỏ mọc trong Địa ngục và hướng dẫn linh hồn người chết vào lần đầu thai tiếp theo của họ. Những bông hoa thường liên quan đến thế giới bên kia và có thể được nhìn thấy mọc dọc theo các con đường dẫn đến khu mộ và các địa điểm có ý nghĩa tâm linh khác.
Dưới đây là những hình hoa bỉ ngạn đẹp, mời bạn đọc cùng chiêm ngưỡng.
Hoa bỉ ngạn tượng trưng cho điều gì?
Ở Đông Á, ý nghĩa hoa bỉ ngạn thường gắn liền với cái chết và những hồn ma vì chúng thường được tìm thấy xung quanh các nghĩa địa.
Do vẻ ngoài đáng ngại và có độc, ý nghĩa hoa bỉ ngạn cũng có liên quan đến những điều xui xẻo. Nhiều người sợ hãi khi chạm vào những bông hoa này hoặc mang chúng đến nhà của họ vì nó được coi là dấu hiệu của sự diệt vong hoặc cái chết sắp xảy ra.
Mặc dù nó có một số ý nghĩa tiêu cực, một số loài hoa này được cho là mang lại sức khỏe tốt và cuộc sống lâu dài cho con người. Điều này có thể là do nó được sử dụng trong các loại kem và thuốc chữa bệnh. Chúng được sử dụng phổ biến để điều trị bệnh dạ dày và viêm bụng, đặc biệt là ở Nhật Bản và Trung Quốc.
Những bông hoa này cũng được đề cập đến trong một trong những văn bản Phật giáo, Kinh Pháp Hoa, nơi loài hoa được cho là mọc dọc theo cõi chết. Những bông hoa này ý nghĩa như một hướng dẫn cho các linh hồn trên đường tái sinh hoặc giác ngộ.
Ý nghĩa màu sắc hoa bỉ ngạn
Hoa bỉ ngạn có nhiều màu sắc khá đẹp mắt như đỏ, trắng và vàng. Màu sắc phổ biến nhất là hoa bỉ ngạn đỏ. Chúng thường mọc trên các cánh đồng của Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở khắp Đông Á và các khu vực khác trên thế giới, những ý nghĩa biểu tượng khác nhau được gán cho những loại hoa này.
Hoa bỉ ngạn đỏ: Do đặc tính độc, khắp Trung Quốc và Nhật Bản, hoa bỉ ngạn đỏ tươi nổi bật được trồng xung quanh các nghĩa trang để xua đuổi động vật bị thu hút bởi mùi máu. Đây là một trong những lý do tại sao ý nghĩa hoa bỉ ngạn đỏ được liên kết với cái chết, lời tạm biệt và nỗi buồn trong một số văn hóa và văn hóa dân gian châu Á, hoa bỉ ngạn đỏ được sử dụng ở Nhật Bản như một loài hoa trang trí trong các lễ tang. Trong Phật giáo, chúng được cho là mọc trên bờ sông sanzu thần thoại để hướng dẫn các linh hồn đang rời đi trong hành trình hướng tới thế giới bên kia.
Hoa bỉ ngạn trắng: Trái ngược hoàn toàn với màu đỏ, ý nghĩa hoa bỉ ngạn trắng được liên kết với các khía cạnh như bản chất tích cực, khởi đầu mới, sức khỏe tốt và sự tái sinh. Theo truyền thống, những bông hoa này đã được sử dụng làm thuốc chữa bệnh ung thư cũng như đặc tính chữa bệnh. Vì khả năng chịu đựng và phát triển tốt trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, nó còn tượng trưng cho sự tái sinh và khởi đầu mới trong cuộc sống.
Hoa bỉ ngạn hồng: Hoa bỉ ngạn hồng được cho là biểu tượng của tình yêu nữ tính, vẻ đẹp và niềm đam mê. Tương tự như những phẩm chất của màu hồng, những bông hoa bỉ ngạn này được ưa chuộng vì vẻ đẹp thanh lịch của chúng
Hoa bỉ ngạn vàng: Đẹp đẽ và đáng yêu, ý nghĩa hoa bỉ ngạn vàng gắn liền với các thuộc tính như hạnh phúc, ánh sáng và trí tuệ, nó thường tượng trưng cho sự giàu sang và tặng những bông hoa như vậy được cho là sẽ mang lại sự thịnh vượng và dồi dào của cải cho người nhận nó.
Hoa Bỉ Ngạn là một trong những loài hoa đẹp được rất nhiều người yêu thích. Loài hoa này không chỉ đẹp mà còn mang rất nhiều ý nghĩa. Chính vì lẽ đó mà loài hoa này được rất nhiều bạn trẻ lựa chọn để làm hình nền trang trí điện thoại, máy tính…, hy vọng Điện hoa xanh đã cung cấp những thông tin hữu ích để Bạn hiểu hơn về loài hoa này. Và nếu Bạn đang tìm kiếm một món quà hoa tươi và có nhu cầu đặt điện hoa đừng quên liên hệ với chúng tôi ngay bây giờ.
Câu hỏi thường gặp
Vẻ đẹp của Manzhushahua là vẻ đẹp điềm báo của ma quỷ, thảm họa , chết chóc và chia ly. Hoặc bởi vì màu đỏ tươi đậm của nó gợi nhớ đến máu, hoặc bởi vì củ của nó có độc tính cao, hình ảnh của nó thường được gắn với những khái niệm như buồn, tình duyên trắc trở . Suy cho cùng, xăm hình là một quyết định rất quan trọng, vì vậy trước khi quyết định xăm hình hoa bỉ ngạn lên cơ thể, hãy suy nghĩ thật kỹ.
Hoa bỉ ngạn trắng gọi là Mandala, hoa bỉ ngạn đỏ gọi là Manzhushahua ( xem thêm để biết chi tiết nguồn gốc tên gọi)
Hoa bỉ ngạn mang vẻ đẹp ai oán, buồn thảm, ý nghĩa hoa bỉ ngạn tượng trưng cho sự chia ly, buồn khổ, tình duyên trắc trở.